Trước tác Immanuel_Kant

Trước khi trình luận án tiến sĩ năm 1755, Kant sinh kế bằng dạy học tại gia và viết những luận văn triết học tự nhiên đầu tiên, như bài "Tư duy về sự cảm kích chân chính các lực có sức sống" (Gedanken von der wahren Schätzung der lebendigen Kräfte Bản mẫu:Kant), công bố vào 1749, và Thông sử tự nhiên và Thiên thể luận (Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels Immanuel Kant: AA I, 215–368[2]) năm 1755, trong đó ông trình bày một lý thuyết về sự hình thành các hệ thống hành tinh theo các định luật Newton (Kant-Laplacesche Theorie der Planetenentstehung). Cũng trong năm đó, ông trình luận án tiến sĩ về lửa (De igne (Immanuel Kant: AA I, 1–181[3])) và trình luận văn hậu tiến sĩ (Habilitationsschrift), một bài luận về những nguyên tắc đầu tiên của tri thức siêu hình (Nova dilucidatio).

Năm 1762, sau một vài tiểu luận, Kant công bố luận văn Luận cứ duy nhất khả hữu để thực chứng sự tồn tại của Thượng đế (Der einzige mögliche Beweisgrund zu einer Demonstration des Daseins Gottes) và trong đó, ông tìm cách chứng minh là tất cả những chứng minh sự tồn tại từ trước đến nay không đứng vững và phát triển một cách chứng minh sự tồn tại của Thượng đế mang tính chất bản thể học để cứu chữa những nhược điểm này.

Những năm sau đó được đánh dấu bởi một ý thức ngày càng tăng trưởng về vấn đề phương pháp của Siêu hình học truyền thống, đặc biệt được thể hiện trong tiểu luận có thể nói là giải trí nhất của Kant, Những giấc mơ của người thấy thần linh, được diễn giảng bằng những giấc mơ của siêu hình học (Träume eines Geistersehers, erläutert durch Träume der Metaphysik) năm 1766, được hiểu như một tác phẩm phê phán Emanuel Swedenborg. Trong tác phẩm "De mundi sensibilis atque intelligibilis forma et principiis" (Về mô thức và các cơ sở của thế giới cảm tính và thế giới khả niệm), xuất hiện năm 1770, Kant lần đầu tiên phân biệt khắt khe giữa tri thức các hiện tượng (Phaenomena) qua cảm năng (sinnliche Erkenntnis) và tri thức vật thể (Erkenntnis der Dinge) như chúng tự thể (an sich) là, bằng giác tính (Verstand, "Noumena"). Không gian và thời gian được ông xem là những trực quan thuần tuý (reine Anschauungen) thuộc về chủ thể (Subjekt), là tất yếu để sắp xếp các hiện tượng theo trật tự. Và như vậy, hai điểm trọng yếu của triết học phê phán sau này được chuẩn bị mặc dù phương pháp của Kant ở đây vẫn còn mang tính chất giáo điều và ông còn cho rằng, tri thức các vật tự thể bằng giác tính là một việc khả thi. Trong thập niên theo sau, Kant phát triển triết học phê phán mà không công bố của một luận văn quan trọng nào ("những năm yên lặng").

Khi Kant cho ra tác phẩm Phê phán lý tính thuần tuý (Kritik der reinen Vernunft) năm 1781 thì triết học của ông đã trải qua một biến đổi trọng đại – câu hỏi "siêu hình học như thế nào mới có thể là một khoa học" phải được giải đáp trước khi các câu hỏi siêu hình học được xử lý. Luận văn phê phán này xử lý tri thức tiên nghiệm (a priori), có nghĩa là một tri thức khả hữu đi trước tất cả những kinh nghiệm cụ thể, trong ba phần.

Trước hết là các dạng cảm năng tiên nghiệm (Sinnlichkeit a priori) - được xem ở đây là các trực quan thuần tuý (reine Anschauung) không gian và thời gian - đã đặt nền tảng cho toán học như một khoa học tiên nghiệm (apriorische Wissenschaft). Trong phần thứ hai, phần luận lý siêu nghiệm (transzendentale Logik), thì các khái niệm không tuỳ thuộc vào kinh nghiệm (erfahrungsunabhängige Begriffe), tức là các phạm trù (Kategorien), phải được áp dụng vào tất cả các đối tượng của kinh nghiệm một cách tất yếu. Qua việc áp dụng các phạm trù này thì một hệ thống xuất hiện với những nguyên tắc xác tín trên cơ sở tiên nghiệm, ví dụ như sự kết hợp nhân quả của tất cả các hiện tượng cảm năng, và qua đó, trình bày một lĩnh vực hợp lý của tri thức triết học. Các tri thức này phải là cơ sở của các ngành khoa học tự nhiên. Nhưng, với sự xác định các phạm trù này là những quy luật tất nhiên của sự kết hợp dành cho sự đồng nhất của các hiện tượng thì ta lại thấy rằng, những khái niệm này không thể được áp dụng cho các vật như chúng tự thể là (Noumena). Qua sự cố gắng (xuất hiện tất yếu trong lý tính con người) nhận thức được cái vô điều kiện (das Unbedingte) và sự cố gắng vượt qua tri thức cảm năng thì lý tính (Vernunft) sa lạc vào mâu thuẫn bởi vì không còn các tiêu chuẩn cho sự thật nào nữa ở đây. Các chứng minh siêu hình ví dụ như các chứng minh dành cho tính bất tử của linh hồn, tính vô biên của vũ trụ hoặc sự tồn tại của thượng đế là những gì không thể; những quan niệm của lý tính chỉ mang lợi ích trong vai trò khái niệm điều chỉnh và hướng dẫn tri thức kinh nghiệm.

Bị thúc đẩy bởi sự tiếp thụ chậm cũng như hiểu lầm nặng nề bản thứ nhất của Phê phán lý tính thuần tuý, Kant công bố bài Prolegomena với mục đích dẫn nhập triết học phê phán một cách dễ hiểu. Luân lý của ông, chỉ được đề cập sơ qua trong những chương cuối của Phê phán lý tính thuần tuý, được ông phát huy trong tác phẩm Đặt cơ sở cho nhân luân siêu hình học vào năm 1785 (Grundlegung zur Metaphysik der Sitten), với lệnh thức tuyệt đối (kategorischer Imperativ) là nguyên lý của luân lý (Ethik), và quan niệm tự do, cái chưa được chứng minh trong phê phán thứ nhất dành cho lý tính lý thuyết, được biện hộ là điều kiện tiên quyết tất nhiên của lý tính thực tiễn.

Kant cũng quay về những vấn đề triết học tự nhiên và năm 1786, ông cho ra luận văn Những cơ sở sơ khai siêu hình của Khoa học tự nhiên (Metaphysischen Anfangsgründe der Naturwissenschaft), đặt cơ sở cho vật lý Newton bằng nguyên lý phê phán, và như qua đó, đưa ra một ví dụ cụ thể cho việc áp dụng triết học siêu nghiệm.

Sau khi chỉnh lý lại các thành phần của Phê phán lý tính thuần tuý cho lần ấn bản thứ hai vào năm 1787, ông cho ra tác phẩm Phê phán lý tính thực tiễn (Kritik der praktischen Vernunft), giải thích và phát triển phương pháp "lập cơ sở" (Grundlegung) đạo đức triết học và cuối cùng, vào năm 1793, ông công bố luận văn Phê phán năng lực phán đoán (Kritik der Urteilskraft). Trong lời nói đầu của tác phẩm, ông tuyên bố một cách hãnh diện là với luận văn này, công trình phê phán của ông đã được kết thúc và ông có thể "thẳng bước đến học thuyết" ("ungesäumt zum doktrinalen"), tức là phát triển một hệ thống Triết học siêu nghiệm (Transzendentalphilosophie).

Nhưng trước khi thực sự phát triển thì ông còn cho ra tác phẩm Tôn giáo trong phạm vi lý tính đơn thuần (Die Religion innerhalb der Grenzen der bloßen Vernunft). Trong đó, ông nghiên cứu nội dung lý tính của tôn giáo, và giải thích cách tiếp cận của một tôn giáo lý tính mang tính chất đạo đức thực tiễn (Ansatz einer moralisch-praktischen Vernunftreligion) như nó đã được học thuyết giả định trong phê phán thứ hai và thứ ba phát triển. Năm 1797, phần thứ nhất của hệ thống, luận văn Nhân luân siêu hình học (Metaphysik der Sitten), ra đời.

Nhưng công trình phát triển triết học tự nhiên của ông bị gián đoạn. Ngay trong thời gian viết Nhân luân siêu hình học, ông cũng đã khởi công soạn Chuyển biến từ những cơ sở sơ khai siêu hình đến vật lý (Übergang von den metaphysischen Anfangsgründen zur Physik) và theo đuổi nó cho đến khi qua đời năm 1804. Các bản thảo của Kant cho thấy rằng, ông vẫn còn khả năng và sẵn sàng biến chuyển triết học phê phán của mình. Xuất phát từ vấn đề biện hộ những phương châm nghiên cứu mang tính chất quy định đặc thù của Khoa học tự nhiên, Kant tự thấy phải khảo sát kĩ hơn vai trò của thân thể con người trong tri thức. Nhưng vấn đề của công trình nghiên cứu này ngày càng chuyển đến những tầng cấp trừu tượng hơn trong quá trình phác thảo nên Kant đã quay lại tầng cấp hệ thống tương ưng phê phán lý tính thuần tuý, tuy không hẳn tương ưng cách đặt vấn đề trong đó (và chúng cũng khó được nhận ra vì trạng thái của các bản viết tay). Kant phát triển một "học thuyết tự đề cử" (Selbstsetzungslehre), triển khai nó đến lý tính thực tiễn và kết thúc nó với những bản phác thảo cho một "hệ thống triết học siêu nghiệm" (System der Transzendentalphilosophie) được phác hoạch mới; nhưng ông không hoàn tất nó được nữa.